Hợp đồng mua bán là gì? Mua bán hàng hóa là một giao dịch thương mại trong đó người bạn sẽ buộc giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; Người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán, nhận và sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa mang những bản chất chung có trong hợp động và đây chính là sự thỏa thuận dùng để thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ kinh doanh. Theo Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng giữa các bên mà bên bán có nghĩa vụ bàn giao hàng hóa cho người mua và nhận hàng chính là tiền trong khi người mua có nghĩa vụ nhận nó và trả tiền cho bên giao hàng. Hàng hóa được hiểu là động sản và những thứ gắn liền với đất. Thông thường hàng hóa sẽ có quy mô nhỏ hơn so với tài sản. Từ đó, bạn có thể hiểu đơn giản chính là hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại chính là một dạng của hợp đồng mua bán tài sản. Hợp đồng mua bán hiện được phân thành 2 loại gồm: hợp đồng mua bán hàng trong nước và hợp động mua bán hàng hóa nước ngoài. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiện nay không được quy định trong luật thương mại năm 2005, nhưng các quy định tại Điều 758 của Bộ luật Dân sự năm 2005 về quan hệ dân sự với các yếu tố nước ngoài cho phép suy ra rằng một hợp đồng nếu được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nếu có một trong những yếu tố như sau: - Tùy thuộc vào đối tượng, các hợp đồng được ký kết bởi các bên không có cùng quốc tịch. - Trên cơ sở yếu tố của đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng hiện đang ở nước ngoài - Trên cơ sở nơi hợp đồng được thiết lập và thực hiện, hợp đồng được ký kết ở nước ngoài có thể được thực hiện tại quốc gia của chính mình hoặc ở nước thứ ba. . Một trong những điều cần lưu ý ở hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiện nay chính là các bên tham gia hợp đồng sẽ dễ dàng đối mặt với các rủi ro như xung đột pháp lý, do quá trình vận chuyển, thanh toán và thực hiện các cam kết hợp đồng. Do đó, các bên phải đồng ý và soạn thảo cho chính mình một hợp đồng chi tiết. Theo thông tin có trong khoản 2, điều 27 của luật thương mại có quy định như sau hợp đồng mua bán cần phải được soạn thảo thành văn bản. Quy định có liên quan tới hợp đồng mua bán mới nhất năm 2019 Đặc điểm chung trong hợp đồng mua bán + Đây chính là một bản hợp đồng đồng ý - có nghĩa là, nó được coi là hợp đồng khi các bên đã thỏa thuận các điều kiện cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào trong thời gian giao hàng, việc bàn giao hàng hóa sẽ được coi là một trong những hoạt động của bên bán nhằm thực hiện những nghĩa vụ có ghi trong hợp đồng. + Bồi thường- người bán, khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua, sẽ nhận được từ người mua giá trị tương đương với giá trị của hàng hóa, điều này được nêu trong thỏa thuận dưới dạng khoản thanh toán. + Hợp đồng song phương - mỗi bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa bị ràng buộc bởi nghĩa vụ với bên còn lại, ngoài ra cũng là hợp đồng mà các bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ với mình. Trong hợp đồng thương mại, có hai nghĩa vụ chính liên quan chặt chẽ với nhau: nghĩa vụ của người bán là giao hàng cho người mua và nghĩa vụ của người mua phải trả cho người bán Đặc điểm riêng trong hợp đồng mua bán + Xét về mặt chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa được xây dựng giữa các chủ thể hầu hết chính là các thương nhân. Theo thông tin có ghi trong luật thương mại 2005 quy định rằng thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; mọi người thực hiện các hoạt động kinh doanh của họ một cách độc lập, thường xuyên và có giấy phép đăng ký kinh doanh hợp pháp. Theo thông tin ghi lại trong khoản 3 điều 1 của bộ luật thương mại, hoạt động của những bên chủ thể không phải là thương nhân cũng không có mục đích kiếm lợi nhuận trong quan hệ mua bán phải tuân theo những quy định có trong luật thương mại nếu chủ thể áp dụng Luật thương mại. Hình thức của hợp đồng mua bán Về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa chúng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên ký kết hợp đồng. Trong một số trường hợp, luật pháp yêu cầu các bên tham gia ký kết hợp đồng bằng hình thức văn bản chẳng hạn như hợp đồng mua bán quốc tế, phải được thể hiện bằng văn bản hoặc dưới hình thức khác mang giá trị tương đương như điện báo, telex, fax hoặc tin nhắn dữ liệu. Đối tượng trong hợp đồng mua bán Đối tượng chính trong hợp đồng mua bán hàng hóa chính là hàng hóa. Theo thông tin trong Luật thương mại 2005, hàng hóa chính là một đối tượng chính trong quan hệ mua bán đó có thể là loại hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lại, hàng hóa hiện tại cũng có thể là động sản hay bất động sản,…. Nội dung chính trong hợp đồng mua bán Nội dung của hợp đồng thường tương ứng với các điều kiện được các bên thỏa thuận, thể hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng mua bao gồm các điều kiện, quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia. Hợp đồng có những nội dung chủ yếu gì sẽ tùy thuộc vào quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau. Việc luật pháp có quy định những nội dung cần có trong hợp đồng mua bán sẽ hướng các bên phải tập trung vào thỏa thuận về các yếu tố quan trọng của hợp đồng, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và ngăn ngừa tranh chấp có thể xảy ra khi thực hiện hợp đồng. Luật thương mại hiện tại không có quy định hợp đồng mua bán bắt buộc cần phải có những nội dung gì? Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải có thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng. Trong mối quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi các điều khoản đã thỏa thuận giữa họ mà còn chịu sự ràng buộc bởi các quy định của pháp luật, nghĩa là những quy định của pháp luật nhưng các bên lại không thỏa thuận trong hợp đồng mua bán của mình. Quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua trong hợp đồng mua bán Trong hợp đồng mua bán, bên cạnh các quyền và nghĩa vụ được thỏa thuận giữa người bán và người mua, còn có các quyền và nghĩa vụ đối với các bên theo quy định của pháp luật. Như chúng ta đã biết, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó, dưới đây chính là thông tin có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng mua bán. Nghĩa vụ cần thực hiện của người bán Nghĩa vụ chính của người bán theo hợp đồng mua bán là nghĩa vụ giao hàng. Nghĩa vụ giao hàng bao gồm: Giao hàng cần đúng đối tượng và chất lượng theo hợp đồng Người bán phải giao đúng mặt hàng và chất lượng tốt theo thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật. Chất lượng của hàng hóa có thể được thỏa thuận hoặc xác định theo các cách khác nhau: bằng hình thức, bằng mô phỏng, trên cơ sở tiêu chuẩn hóa, tùy thuộc vào sự kiểm soát, v.v. Các hàng hóa phải đảm bảo rằng không có lỗi có thể được nhìn thấy khi hàng hóa được giao và thậm chí là những khiếm khuyết chỉ có thể được phát hiện trong quá trình sử dụng (ẩn bên trong). Trong trường hợp không thể xác định rõ liệu đối tượng có giao đúng theo hợp đồng hay không, theo quy định của LTM 2005, hàng hóa được coi là không tương thích với hợp đồng nếu chúng thuộc một trong các trường hợp sau: : + Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường từ những sản phẩm hàng hóa có cùng chủng loại. + Không phù hợp cho một mục đích cụ thể mà người mua đã chỉ định cho người bán hoặc người bán phải biết tại thời điểm ký kết hợp đồng. + Không lưu trữ và đóng gói theo cách thông thường cho các sản phẩm đó hoặc sử dụng một phương tiện thích hợp để giữ chúng trong trường hợp không có cách nào để giữ chúng. + Không đảm bảo chất lượng, chẳng hạn như chất lượng của các mẫu hàng hóa mà người bán đã giao cho người mua. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng, các bên sẽ không chịu trách nhiệm pháp lý theo Điều 39 và 41 của LTM 2005. Ngoài việc giao đúng mặt hàng và chất lượng của hàng hóa, người mua cũng được yêu cầu giao đúng số lượng hàng hóa đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp nếu bạn bàn giao với số lượng ít hơn thì bên mua có quyền chấp nhận số lượng ít hơn hoặc cũng có thể yêu cầu bên bán bàn giao nốt và cũng có thể là hủy bỏ hợp động. Nếu như bên mua chịu chấp nhận hàng hóa với số lượng ít hơn đó mà không có bất kể khiếu nại gì thì lúc này được coi là đã chấp nhận việc sửa đổi. Nếu bên bán giao hàng với số lượng nhiều hơn bên mua có quyền từ chối và bên bán hàng sẽ phải nhận lại số hàng dư thừa này cùng các chi phí có liên quan. Cần đưa chứng từ kèm theo hàng hóa Theo LTM 2005, trong trường hợp thỏa thuận giao chứng từ, người bán có nghĩa vụ giao cho người mua các chứng từ liên quan đến hàng hóa (như giấy chứng nhận chất lượng, chứng nhận xuất xứ, vận đơn, v.v.). .trong thời gian cho phép, tại địa điểm và theo phương pháp đã thỏa thuận. Nếu các bên không đồng ý về địa điểm và ngày giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa, người bán phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa cho người mua trong một thời gian hợp lý và ở một nơi hợp lý để anh ta có thể nhận hàng. Theo các quy định tại khoản 3 và 4, điều 42 của LTM 2005, nếu người bán giao các tài liệu liên quan đến hàng hóa trước thời gian đã thỏa thuận, nếu có bất kỳ sai sót nào trong chứng từ liên quan thì bên bán có thể khắc phục trong khoảng thời gian còn lại. Khi người bán khắc phục sự thiếu hụt của các tài liệu này dẫn đến bất lợi hoặc chi phí không hợp lý cho người mua, anh ta có quyền yêu cầu người bán khắc phục nhược điểm hoặc chịu chi phí đó. Giao hàng đúng thời gian và địa điểm Các bên thường đồng ý về thời gian giao hàng trong hợp đồng. Nếu các bên không đồng ý về vấn đề này trong hợp đồng, các quy định pháp lý hoặc thông lệ sẽ được áp dụng. Nếu 2 bên không đề cập rõ ràng tới thời gian giao hàng cụ thể nào mà chỉ có thời hạn giao hàng thì người bán có thể giao hàng bất cứ lúc nào trong thời gian này và phải thông báo trước cho người mua. Nếu hợp đồng đề cập tới thời gian giao hàng thì bên bán cần phải bàn giao hàng trong một thời gian hợp lý nhất khi hợp đồng ký kết. Người bán phải giao hàng đến đúng nơi, theo thỏa thuận. Trong trường hợp cả 2 bên đều không thỏa thuận trong hợp đồng thì lúc này địa điểm giao hàng sẽ được xác định như sau: + Nếu hàng hóa là đối tượng gắn liền với đất, người bán phải giao hàng đến nơi họ đang ở. + Nếu hợp đồng mua bán có quy định rõ ràng về việc vận chuyển hàng hóa, lúc này người bán cần phải có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển. Trên thực tế, người bán không thể giao hàng trực tiếp cho người mua, nhưng việc giao hàng có thể được thực hiện thông qua bên thứ ba (ví dụ: thông qua một hãng vận tải hàng hóa ...). Các bên có thể đồng ý về rủi ro của hàng hóa khi giao hàng bởi bên thứ ba. Trong trường hợp không có thỏa thuận, người bán được coi là đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sau khi giao hàng cho bên thứ ba theo các điều khoản giao hàng được hai bên thỏa thuận. + Nếu hợp đồng không có những quy định cụ thể nhất về việc vận chuyển hàng hóa; Nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên biết địa điểm kho, nơi bốc hàng hoặc nơi sản xuất hoặc sản xuất hàng hóa thì người bán phải giao hàng tại đó. + Trong các trường hợp khác, người bán phải giao hàng cho người bán. Kiểm tra lại hàng hóa trước khi giao Trong hợp đồng mua bán, đây là điều mà bên bán bắt buộc cần phải thực hiện để ngăn chặn việc giao hàng sai và tăng khả năng mua hàng hiệu quả, kiểm tra trước khi giao hàng là một yêu cầu cần thiết trong những giao dịch mua bán. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về kiểm soát hàng hóa trước khi giao hàng, người bán phải cho phép người mua thực hiện kiểm tra hàng hóa. Người mua phải kiểm tra hàng hóa trong một khoảng thời gian cho phép. Nếu người mua không kiểm tra hàng hóa theo thỏa thuận thì khi tới thời hạn bên bán có quyền bàn giao hợp đồng theo đúng thời hạn có ghi trong hợp đồng. Khi người mua phát hiện ra rằng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, lúc này họ sẽ phải thông báo cho bên bán biết trong một thời gian hợp lý. Nếu người mua không đưa ra thông báo này, người bán không chịu trách nhiệm về các khiếm khuyết của hàng hóa, trừ khi những khiếm khuyết này có thể được phát hiện trong quá trình kiểm tra bằng các phương tiện thông thường mà bên bán đã biết nhưng không thông báo cho bên mua được biết. Nghĩa vụ bảo quản hàng hóa Ngoài nghĩa vụ chính là giao hàng, người bán còn có một nghĩa vụ khác là bảo đảm hàng hóa, đó là trong một thời gian nhất định, người bán phải chịu trách nhiệm về hàng hóa sau khi giao hàng cho người mua. Luật quy định rằng trong trường hợp hàng hóa có bảo hành, người bán có trách nhiệm bảo lãnh những hàng hóa này theo nội dung và thời gian đã thỏa thuận. Thời hạn bảo hành có thể được xác định bởi chính các bên, cũng có thể được yêu cầu bởi pháp luật. Nếu luật pháp quy định rằng thời hạn này là bắt buộc thì các bên tham gia ký kết hợp đồng chỉ có quyền thỏa thuận để tăng thêm hời hạn mà thôi. Trong thời gian bảo hành, nếu người mua phát hiện ra lỗi của hàng hóa, anh ta có quyền yêu cầu người bán sửa chữa tất cả các chi phí sửa chữa lúc này người bán sẽ phải chịu trừ trường hợp có những quy định khác được nêu ra. Nếu người bán không sửa chữa hoặc khắc phục nó trong thời gian hai bên thỏa thuận, người mua có thể yêu cầu đổi hàng hóa, yêu cầu giảm giá hoặc trả lại hàng hóa và thu hồi tiền. LTM 2005 không nêu rõ các vấn đề bảo hành của hàng hóa, nếu các bên chưa đạt được thỏa thuận, các quy định tại Điều 446-448 của Bộ luật Dân sự được áp dụng. Nghĩa vụ cần thực hiện của người mua hàng Nhận và trả tiền là nghĩa vụ cơ bản của người mua, tương ứng với nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu tài sản của người bán. Nghĩa vụ thực hiện nhận hàng: Nhận hàng có nghĩa là người mua thực sự nhận được chúng từ người bán. Người mua phải thực hiện công việc hợp lý để người bán giao hàng, tùy từng trường hợp. Công việc hợp lý này có thể là: hỗ trợ người bán các thủ tục giao hàng, hướng dẫn phương thức vận chuyển, bốc xếp hàng hóa, v.v. Cần lưu ý rằng biên nhận thực tế không có nghĩa là người mua đã chấp nhận hàng hóa được giao. Khi kết thúc giao hàng, người bán luôn chịu trách nhiệm về các khuyết tật của hàng hóa được giao, nếu các lỗi này không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng các biện pháp thông thường; và người bán biết được nhưng lại không thông báo cho phía bên mua. Khi người bán sẵn sàng giao hàng theo hợp đồng nhưng người mua không nhận được, đây được coi là vi phạm hợp đồng và bị phạt theo các hình phạt được quy định trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong trường hợp này, người bán phải áp dụng các biện pháp cần thiết, càng nhiều càng tốt và với chi phí hợp lý, để lưu trữ và giữ hàng hóa đồng thời cũng có quyền yêu cầu người mua trả tiền cho chi phí đã bỏ ra. Đối với hàng hóa tiềm ẩn những nguy cơ bị hỏng thì bên bán có quyền được bán hàng đó đi và trả tiền cho bên mua bằng số tiền thu được đã trừ đi khoản phí bảo quản hàng hóa. Nghĩa vụ thanh toán: Đây là nghĩa vụ quan trọng nhất của người mua theo hợp đồng mua bán .Các điều khoản thanh toán được quy định trong hợp đồng thường được thỏa thuận giữa các bên, bao gồm nội dung cụ thể của loại tiền thanh toán, phương thức thanh toán, điều kiện và địa điểm thanh toán, lệnh thanh toán và thủ tục, v.v. Nếu các bên chưa đạt được thỏa thuận, các quy định của luật thương mại liên quan đến thanh toán trong hợp đồng sẽ được áp dụng: - Địa điểm thanh toán: Nếu điều này chưa được thỏa thuận trong hợp đồng, địa điểm thanh toán sẽ được xác định theo Điều 54 của MTL 2005. - Thời hạn thanh toán: được xác định theo điều 55 và khoản 3 điều 50 của MTL 2005. - Xác định giá: Căn cứ vào những nội dung có ghi trong điều 52 - Chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán: Điều 306 - Chấm dứt thanh toán: Điều 51 Trên đây là tất tần tật những thông tin có liên quan tới hợp đồng mua bán, hy vọng thông qua bài viết này bạn đọc có thể nhận được thật nhiều những thông tin cần thiết cho chính mình.
Coi thêm ở: Hợp đồng mua bán là gì? Những quy định mới nhất về hợp đồng mua bán
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét